Điều kiện để một người không phải chịu trách nhiệm hình sự
Nhiều người thường nhầm lẫn trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự là cùng một việc. Tuy nhiên, đây là hai trường hợp khác nhau. Vậy miễn trách nhiệm hình sự có ý nghĩa như thế nào?
Trong bài viết này, Hoatieu.vn xin gửi tới độc giả “Các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự” Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015.
Quy định của pháp luật về loại trừ trách nhiệm hình sự
1. Loại trừ trách nhiệm hình sự là gì?
Miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Chương IV BLHS 2015.
Miễn trách nhiệm hình sự là việc một người không phải chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của người đó không phải là tội phạm và không có tiền án, tiền sự.
2. Các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự
Chương IV BLHS 2015 quy định loại trừ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau đây:
Sự kiện bất khả kháng (Điều 20):
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội, trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không thể thấy trước hậu quả của hành vi đó thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bản chất của sự kiện không thể lường trước được là người thực hiện hành vi không có lỗi, không có quyền lựa chọn thời điểm thực hiện hành vi gây hại hoặc không thấy trước được hậu quả do hoàn cảnh khách quan. và họ không chịu trách nhiệm về những hậu quả đó.
Mất năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21):
Cá nhân thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự có thể hiểu là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh tật. Để xác định tình trạng mất khả năng nhận thức hành vi hoặc tình trạng mất khả năng điều khiển hành vi là nguy hiểm cho xã hội thì phải có kết luận và hậu quả đánh giá tính chất của hành vi là nguy hiểm cho xã hội.
Bảo vệ theo luật định (Điều 22):
Phòng vệ chính đáng là hành động của một người nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích của người khác, của Nhà nước, cơ quan, tổ chức nhưng cần thiết để chống lại người thực hiện hành vi đó. Vi phạm các lợi ích nói trên.
Một đạo luật được coi là phòng vệ pháp lý khi nó thỏa mãn đồng thời hai dấu hiệu: một là sự vi phạm một hành vi nguy hiểm đang tồn tại, nhà nước, cơ quan tập thể, thể chế, quyền và lợi ích. người bào chữa hoặc người khác bào chữa”, thứ hai, hành vi bào chữa gây thiệt hại cho người vi phạm thì cần căn cứ vào hai dấu hiệu này để xác định giới hạn phòng vệ chính đáng vì pháp luật quy định tại khoản 2 điều này “vượt quá giới hạn phòng vệ pháp lý là hành vi chống trả rõ ràng là giết người quá mức, trái ngược với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi ngược đãi.
Tình trạng khẩn cấp (Điều 23):
Trường hợp khẩn cấp là tình huống mà một người không có lựa chọn nào khác ngoài việc làm hại để tránh làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, cơ quan, tổ chức. Một tổn thất nhỏ hơn tổn thất cần ngăn chặn.
Để được coi là tình thế cấp thiết phải có ba dấu hiệu: thứ nhất, phải có nguy cơ xâm phạm các lợi ích được pháp luật bảo vệ đang tồn tại và thực sự, thứ hai, hành vi gây thiệt hại là hành động duy nhất để vượt qua nguy cơ. Thứ ba, thiệt hại gây ra trong trường hợp khẩn cấp phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn. Tương tự như bảo vệ pháp luật, theo khoản 2 điều này, tình trạng khẩn cấp xác định 3 dấu hiệu để xác định trường hợp vượt quá yêu cầu của tình trạng khẩn cấp thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Gây thiệt hại trong khi truy bắt tội phạm (Điều 24):
Việc bắt giữ một người phạm tội mà không có bất kỳ biện pháp nào khác ngoài việc sử dụng vũ lực cần thiết để gây hại cho người bị bắt giữ không phải là một hành vi phạm tội.
Để được coi là dễ bắt tội phạm là trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự thì phải có đủ ba điều kiện: Thứ nhất, hành vi bắt phải thuộc về người có quyền bắt. Thiệt hại cho người bị bắt buộc phải dùng biện pháp cuối cùng, không còn cách nào khác là phải bắt giữ người phạm tội quả tang; Thứ ba, việc dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt là bắt buộc
Nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25):
Hành vi gây thiệt hại trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, triển khai tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới không phải là tội phạm nếu phải tuân thủ đúng quy trình, quy định và áp dụng đầy đủ các biện pháp ngăn chặn.
Người không thực hiện đúng quy trình, quy định, không áp dụng đầy đủ các biện pháp ngăn chặn mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình phạt.
Theo Điều 25, điều kiện để được loại trừ trách nhiệm hình sự bao gồm 3 điều kiện: thứ nhất, hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ phải nhằm mục đích có lợi cho xã hội, thứ hai, hành vi gây thiệt hại phải được hạn chế trong nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ Lĩnh vực xử sự, thứ ba là người gây thiệt hại đã thực hiện đúng quy trình, quy định và áp dụng đầy đủ các biện pháp ngăn chặn.
Chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (Điều 26):
Người có hành vi gây thiệt hại trong khi thực hiện mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nếu thực hiện đầy đủ thủ tục trình báo thì kể cả khi có lệnh, người ra ra lệnh vẫn có quyền yêu cầu thi hành mệnh lệnh thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người ra lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421 (tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược), khoản 2 Điều 422 (tội chống loài người) và khoản 2 Điều 423 (tội chống loài người). của mã này.
Điều kiện được xem xét gồm 4 điều kiện sau: Thứ nhất, người thực hiện hành vi gây thiệt hại phải là người có mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên của lực lượng vũ trang nhân dân, thứ hai là ý định thực hiện mệnh lệnh đó. Người chỉ huy, cấp trên của lực lượng vũ trang phải vì mục đích thực hiện nhiệm vụ liên quan đến quốc phòng, an ninh. trình báo với người ra lệnh nhưng người ra lệnh vẫn yêu cầu thi hành mệnh lệnh. Thứ tư, việc thực hiện mệnh lệnh này không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 – Điều 421, khoản 2 – Điều 422, khoản 2 – Điều 423 BLHS.
3. Ví dụ loại trừ trách nhiệm hình sự
Ví dụ: A dùng dao chém B, sau khi chạy trốn thì bị A bắt được, B không còn cách nào khác đành phải dùng một khúc gỗ tìm được bên đường để chống trả lại A trong quá trình đánh nhau với A. Đánh vào đầu. , LÀM.
Hành vi của B là phòng vệ theo luật định nên được loại trừ trách nhiệm hình sự, không phải là tội phạm
4. Điều kiện, thủ tục miễn trách nhiệm hình sự
Khả năng và thủ tục loại trừ trách nhiệm hình sự không được quy định cụ thể trong các đạo luật.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc loại trừ trách nhiệm hình sự thường xảy ra như sau:
- Khi một người đáp ứng các điều kiện loại trừ trách nhiệm hình sự thì cơ quan điều tra không thể khởi tố vụ án hình sự vì tính chất của hành vi không phải là tội phạm.
- Sau khi khởi tố vụ án và khởi tố bị can, trong giai đoạn điều tra xác định điều kiện loại trừ trách nhiệm hình sự thì Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra mà không đề nghị truy tố. , Viện kiểm sát không truy tố.
- Trong giai đoạn xét xử, khi xác định đủ điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố, nếu Viện kiểm sát không rút quyết định truy tố thì tại phiên toà, nếu chứng cứ thỏa đáng thì Toà án tuyên bố. Người không có tội.
Trên đây Hoatieu.vn đã cung cấp cho bạn các thuật ngữ pháp lý Các Trường Hợp Loại Trừ Trách Nhiệm Hình Sự. Mời xem thêm các bài viết liên quan tại chuyên mục Hình sự, chuyên mục Hỏi đáp pháp luật
Những bài viết liên quan:
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết của Chaolua TV trang web phát sóng trực tiếp bóng đá số 1 Việt Nam. Chúc bạn có những phút giây vui vẻ !